Cao Đài Tự Điển - Van A
A Ă Â
A Ă Â
A Ă Â là danh xưng tạm của Ðức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Ðế khi giáng điển xuống các buổi xây bàn để tiếp xúc và cảm hóa các môn đồ đầu tiên của Ngài, trong khoảng thời thời gian từ hạ tuần tháng 7 năm 1925 đến ngày Noel 25-12-1925 (Ất Sửu).
A Ă Â là ba nguyên âm đầu tiên của vần quốc ngữ Việt Nam, tượng trưng Tam Thiên Vị, là khởi đầu của Càn Khôn Vũ Trụ.
Ðó là Thượng Ðế Ba Ngôi:
A là ngôi Thái Cực chúa tể Càn Khôn Vũ Trụ,
Ă là ngôi Dương chưởng quản Dương quang,
 là ngôi Âm chưởng quản Âm quang.
Ba ngôi đó gọi là Tam Thiên Vị, ở tại trung tâm của Càn Khôn Vũ Trụ, chiếm ba từng Trời: thứ nhứt, thứ nhì và thứ ba trong Tam thập lục Thiên (36 từng Trời).
Ðấng A Ă Â đến với nhóm xây bàn lần đầu tiên vào hạ tuần tháng 7 năm 1925 (Ất Sửu).
Ba Ông: Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc và Cao Hoài Sang thỉnh bàn ra tính xây bàn để cầu Cô Ðoàn Ngọc Quế giáng dạy làm thi. Ba Ông vừa đặt tay lên bàn thì có một vị giáng vào bàn, cho bài thi:
Ớt cay, cay ớt gẫm mà cay, Muối mặn ba năm muối mặn dai. Túng lúi đi chơi nên tấp lại, Ăn bòn chẳng chịu tấp theo ai.
Ông Cư thấy bài thi có ý nghĩa rất lạ, liền hỏi vị giáng cơ tên gì, thì vị ấy gõ bàn xưng là A Ă Â.
Ông Cư hỏi Ông A Ă Â bao nhiêu tuổi?
Ông A Ă Â gõ bàn trả lời, đếm hoài tới mấy trăm cái mà bàn vẫn tiếp gõ. Ông Cư nói chắc Ông nầy lớn tuổi lắm, nên không dám hỏi nữa.
Kể từ đó, Ðấng A Ă Â thường nhập bàn giảng dạy ba Ông nhiều điều rất thâm thúy. Nhiều điều nào quá khó khăn mà không ai giải thích nổi thì cầu Ông A Ă Â về, Ngài giải thích rất minh bạch khiến mọi người đều kính phục.
Xin trích thuật vài chuyện sau đây:
1. Ông A Ă Â giải nghĩa hai câu thi của Quí Cao (tức thi sĩ Huỳnh Thiên Kiều):
Ngồi thuyền Bát Nhã qua tình biển, Mượn nước nhành dương rưới lửa lòng.
"Bát Nhã Ba La Mật là Phật độ vong hồn qua khỏi biển khổ đặng đến Tây phương, vì trước khi tới Tây phương, phải đi qua cái biển khổ.
Biển tình: Tình là oan oan, oan oan là khổ. Biển tình là biển khổ."
2. Năm 1925, Ông Nguyễn Trung Hậu nghe đồn Ông Tắc, Ông Cư, Ông Sang xây bàn có Tiên giáng cho thi hay lắm. Buổi nọ, Ông Hậu đến nhà Ông Cư, ý muốn thử xem thiệt giả.
Ông Hậu vào hầu đàn. Ông A Ă Â giáng, gõ bàn cho Ông Hậu bài thi sau đây:
THUẦN văn chất ÐỨC tài cao, Tên tuổi làng thơ đã đứng vào. Non nước muốn nêu danh tuấn kiệt, Ðến hồi búa Việt giục cờ Mao.
Không ai biết cái bút hiệu của Ông Hậu là Thuần Ðức, mà Ông A Ă Â nói lên đúng tên làm cho Ông Hậu bái phục và bắt đầu có đức tin.
3. Ông Cư xin Ông A Ă Â giải nghĩa bốn chữ: Cờ Mao búa Việt. Ông A Ă Â giải:
"Cờ Mao búa Việt là vật binh quyền của Hiên Viên Huỳnh Ðế ban cho các Trấn Chư Hầu đặng quyền chinh phạt. Ngũ Ðế và 2 nhà Thương, Châu còn dùng.
Ðáng phạt thì phát cờ Mao,
Ðáng giết thì ban búa Việt.
Cờ Mao màu hồng, trên lá cờ có đề bốn chữ: Mao trừ loạn tặc.
Búa Việt, trên lưỡi búa có khắc bốn chữ: Việt sát phản thần." (Theo Ðạo Sử I của Nữ Ðầu Sư Hương Hiếu)
4. Ngày 26-10-Ất Sửu (dl 12-11-1925), hai nhà báo tên là Lê Thế Vĩnh và Phạm Minh Kiên đến nhà Ông Cư hầu đàn để xem sự xây bàn huyền diệu thế nào.
Ông Cư xin với Ông A Ă Â cho mỗi vị khách một bài thi.
Ðấng A Ă Â liền đáp: "- Ðể Bần đạo cho chung hai người một bài thi:
Một viết với thân giữa diễn đàn, Bằng xua trước giặc vạn binh lang. Nước nhà ví biết thân là trọng, Dạy dỗ sao cho đặng mở mang."
Ai nấy đều khen chỉ có bốn câu mà gồm đủ bộ vận của hai nhà báo.
5. "Một hôm, Ông Hậu (Nguyễn Trung Hậu) bạch cùng Ðấng A Ă Â rằng: Tôi còn nhớ hai câu đối thuở nay chưa ai đối được, xin đem ra cho Ngài đối chơi.
Ðấng A Ă Â bèn đáp: Bần đạo xin hầu đối, nhưng nếu đối ra không chửng, quí vị chớ cười và niệm tình Bần đạo mà chỉnh lại cho.
Câu đối Ông Hậu ra:
Ngồi trên NGỰA đừng BÒ con NGHÉ.
Ðấng A Ă Â đối lại:
Cởi lưng TRÂU chớ KHỈ thằng TÊ.
Câu đối Ông Hậu ra:
Ngựa chạy mang lạc.
Ðấng A Ă Â đối lại:
Cò bay le bè.
Từ đây Ông Hậu mới hết sức phục tài Ðấng A Ă Â, và hết lòng tin tưởng có người vô hình, và sau đó, Ông Hậu nhập môn vào đạo.
Không bao lâu sau, người đến hầu đàn tại nhà Ông Cư càng ngày càng đông, trong ấy có Ông Trương Hữu Ðức làm việc tại Sở Hỏa Xa và thi sĩ Bồng Dinh, tục kêu là Ông giáo Sỏi, làm việc tại Dinh Hiệp Lý Sài Gòn.
6. Một hôm, Ông Bồng Dinh bạch cùng Ðấng A Ă Â:
"Trong Truyện Kiều có câu:
Sửa sang níp Tử xe Châu, Vùi nông một nấm mặc dầu cỏ hoa.
Chẳng hay: Níp Tử xe Châu là gì? Xin Ngài chỉ giáo".
Ðấng A Ă Â đáp: "Níp Tử là cái rương của Khổng Tử. Xe Châu là cái xe của Châu Võ Vương ngồi đi phạt Trụ".
Cái rương của Khổng Tử dùng đựng sách vở, tức là văn chương của người văn sĩ thác rồi, thời biết bao nhiêu học thức văn chương cũng theo xác thịt mà chôn vào quan cữu, nên Nguyễn Du mới dùng hai chữ Níp Tử để gọi cái quan tài của bậc văn chương tài tử là nàng Ðạm Tiên.
Vua Châu Võ Vương ngồi long xa đi phạt Trụ, tức là gồm thâu giang sơn nhà Trụ vào đấy.
Con người ở đời làm được bao nhiêu sự nghiệp, khi thác rồi cũng phủi tay không, thì chẳng khác nào bao nhiêu sự nghiệp tự mình gây dựng trong buổi sanh tiền, khi nhắm mắt rồi, thảy đều thâu vào trong linh xa vậy.
Cho nên, Nguyễn Du dùng hai chữ Xe Châu để gọi cái linh xa của kẻ tài tình bạc mạng. (Trích trong Ðại Ðạo Căn Nguyên của Ngài Bảo Pháp Nguyễn Trung Hậu).
Một hôm khác, Ðấng A Ă Â giáng bàn bảo ba Ông Cư, Tắc, Sang rằng: Muốn cho Bần đạo đến thường, xin chư vị nạp lấy mấy lời yêu cầu của Bần đạo như sau:
Một là đừng kiếm biết Bần đạo là ai?
Hai là đừng hỏi đến Quốc sự.
Ba là đừng hỏi đến Thiên cơ.
Cả ba Ông đều ưng chịu. Kể từ đó, ba Ông thường cầu Ðấng A Ă Â về để học hỏi về thi văn.
Lại một hôm khác, Ðấng A Ă Â nói với ba Ông: "Nếu muốn Ta tận tâm truyền dạy Ðạo lý thì hết thảy phải kỉnh Ta làm Thầy cho tiện bề đối đãi."
Ba Ông mừng lắm, liền vâng chịu thọ giáo cùng Ðấng A Ă Â, và kể từ đây, Ðấng A Ă Â giáng bàn, xưng mình là Thầy và gọi ba Ông là môn đệ.
Sau đó, Ðấng A Ă Â dạy ba Ông tổ chức Lễ Hội Yến Diêu Trì Cung vào đêm Trung Thu năm Ất Sửu (1925) tại nhà Ông Cư.
Ngày 28-8-Ât Sửu (dl 15-10-1925), tức là sau Lễ Hội Yến Diêu Trì Cung 14 ngày, Ðấng A Ă Â nói với ba Ông Cư, Tắc, Sang rằng:
"- Tôi nói lộ Thiên cơ, trên Ngọc Hư bắt tội. Xin tam vị Ðạo hữu cầu Ngọc Hư tha tội cho tôi. Nếu không cầu giùm thì tôi bị phạt."
Ba Ông rất lo lắng, liền tắm gội tinh khiết, vọng bàn hương án ngày 29-8-Ất Sửu để cầu Diêu Trì Cung xin Ngọc Hư tha tội cho Ông A Ă Â.
Ông Cư có đặt một bài thi, rồi ba Ông quì cầu nguyện trước bàn hương án và ngâm bài thi:
Vái van xin quí Cửu Thiên Nương, Tâu với Ngọc Hư tỏ ngọn nguồn. Vì nghĩa Ă A mang trọng tội, Nghĩ tình đồng đạo để tình thương.
Ðấng A Ă Â làm như thế là để thử xem ba Ông có thương Ðấng A Ă Â hay không, đặng sửa soạn cho việc dạy ba Ông Vọng Thiên cầu Ðạo.
Ngày 27-10-Ất Sửu (1925), Bà Cửu Thiên Huyền Nữ giáng dạy ba Ông Vọng Thiên Cầu Ðạo vào ngày mùng 1-11-Ất Sửu (dl 16-12-1925).
Mãi đến đêm Noel (24-12-1925), Thất Nương Diêu Trì Cung giáng cơ truyền cho ba Ông phải chỉnh đàn cho nghiêm hầu tiếp giá.
Nghe vậy, mấy Ông Cư, Tắc, Sang nửa mừng nửa sợ, lật đật sắm đủ hương, đăng, hoa, trà, tửu, quả, chỉnh đàn cho có nghi tiết, đoạn hai Ông Cư và Tắc mới ngồi chấp cơ.
Cơ giáng như vầy:
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ viết CAO ĐÀI TIÊN ÔNG ĐẠI BỒ TÁT MA HA TÁT giáo đạo Nam phương
Muôn kiếp có Ta nắm chủ quyền, Vui lòng tu niệm hưởng ân Thiên. Đạo mầu rưới khắp nơi trần thế, Ngàn tuổi muôn tên giữ trọn biên.
Ðêm nay phải vui mừng là vì ngày Ta đã xuống trần dạy Ðạo bên Thái Tây.
Ta rất vui lòng mà đặng thấy đệ tử kính mến Ta như vậy.
Nhà nầy sẽ đầy ơn Ta. Ta sẽ làm cho thấy huyền diệu đặng kính mến Ta hơn nữa. (Cúng tại nhà Ông Cao Quỳnh Cư 134 Bourdais, Sài Gòn)
Ðức Cao Ðài lại phán rằng: Bấy lâu Thầy vẫn tá danh A Ă Â là cốt để dìu dắt các con vào đường đạo đức, hầu chẳng bao lâu đây, các con phải ra giúp Thầy khai Ðạo.
Các con thấy Thầy khiêm nhượng là dường nào chưa? Các con nên bắt chước trong mảy mún thì mới xứng đáng là người đạo đức." (Trích Ðại Ðạo Căn Nguyên của Ngài Bảo Pháp)
Ngày 31-12-1925 (âl 16-11-Ất Sửu), Ðức Cao Ðài giáng:
A Ă Â
Ba con thương Thầy lắm há?
Con thấy đặng sự hạ mình của A Ă Â thế nào chưa?
Con có thấu đáo cái quyền năng của Thầy chưa?
Người quyền thế lớn nhứt như vậy có thể hạ mình bằng A Ă Â chăng? A Ă Â là Thầy.
Thầy đến con thế ấy, con thương Thầy không?......
A Di-Ðà Phật
A Di-Ðà Phật
Từ ngữ A-Di-Ðà Phật là do phiên âm từ tiếng Phạn: Amitabhâ, chữ Hán dịch là Vô Lượng Quang Phật, nghĩa là Ðức Phật sáng không lường được.
Trong thời Nhị Kỳ Phổ Ðộ, Ðức Phật A-Di-Ðà làm Chưởng giáo Cực Lạc Thế giới. Do đó, bài kệ U Minh Chung, câu 34 là: "Nam mô Nhị Hội Long Hoa Hồng Vương Ðại Hội Di-Ðà Cổ Phật Chưởng giáo Thiên Tôn." (Di-Ðà Cổ Phật là Ðức Phật A-Di Ðà xưa).
Nay là Tam Kỳ Phổ Ðộ, Ðức Phật A-Di-Ðà vâng lịnh Ðức Chí Tôn giao quyền Chưởng giáo Cực Lạc Thế giới cho Ðức Phật Di-Lạc.
Kinh Cầu Siêu:
A-Di-Ðà Phật độ chúng dân.
Câu niệm: "Nam Mô A-Di-Ðà Phật" gồm 6 chữ, được gọi là Lục tự Di-Ðà. Pháp môn niệm Lục tự Di-Ðà là để quán tưởng Phật A-Di-Ðà, Ngài tượng trưng thể tánh sáng suốt của Thượng Ðế, nên niệm như vậy là để giúp cho tánh sáng suốt trong con người thức tỉnh và phát triển đến chỗ phát huệ.
Ðức Phật A-Di-Ðà có 48 lời đại nguyện mà hai lời đại nguyện quan trọng nhứt là: một và hai.
Lời nguyện thứ nhứt: Lúc tôi thành Phật, nếu trong cõi nước tôi có Ðịa ngục, Ngạ quỉ, Súc sanh thì tôi không ở ngôi Chánh giác.
Lời nguyện thứ nhì: Lúc tôi thành Phật, nếu hàng Nhơn Thiên trong cõi nước tôi, sau khi thọ chung, còn trở lại sa vào ba đường ác đạo thì tôi không ở ngôi Chánh Giác.
Chính vì hai lời đại nguyện nầy mà Ðức Phật A-Di-Ðà mãi mãi không bao giờ ở ngôi Chánh giác, bởi vì Luật Công bình của Càn Khôn Vũ Trụ lúc nào cũng phải có 2 khối đối trọng nhau:
Có Thiên đường thì phải có Ðịa ngục,
Có Thiện thanh thì phải có Ác trược,
Có Tiên Phật thì phải có Quỉ Ma.
Nếu Ma Quỉ bị tiêu diệt hết thì cán cân Công bình thiêng liêng gãy đổ, Luật Tiến Hóa của Càn Khôn Vũ Trụ ngưng lại, thì đó là một cuộc đại sụp đổ của Càn Khôn, tức là sụp đổ Thượng Ðế. Ðiều nầy không thể xảy ra được vì Thượng Ðế thì hằng hữu bất biến.
Có 2 sự tích về Ðức Phật A-Di-Ðà:
Sự tích thứ nhứt, Ngài là vua Vô Trách Niệm;
Sự tích 2, Ngài là khất sĩ Amita.
I. Sự tích thứ nhứt:
(Chép trong Kinh Bi Hoa).
Trong vô lượng kiếp ở quá khứ, có một vị vua gọi là Chuyển Luân Vương, tên Vô Trách Niệm, Ngài có một quan đại thần là Bảo Hải. Vua tôi rất thân mật nhau.
Thời đó có Ðức Phật Bảo Tạng ra đời, giáo hóa chúng sanh. Vua và quan đại thần đến nghe thuyết pháp, vua phát tâm thỉnh Phật và đại chúng vào Hoàng cung cúng dường trọn ba tháng để cầu phước báo.
Khi đó, đức Phật Bảo Tạng phóng hào quang sáng ngời soi khắp thế giới của chư Phật mười phương cho chúng hội đồng thấy. Nhờ đó nhà vua phát tâm tu hành, đến đảnh lễ Phật và phát nguyện như sau:
"Tôi nguyện tu hành, khi thành Phật, ứng hóa vào cõi Tịnh Ðộ an vui, nguyện độ tất cả thế giới của tôi dứt hết mọi điều khổ não. Nếu không y lời nguyện thì tôi chẳng chịu thành Phật."
Do nhơn duyên ấy, sau nầy vua Vô Trách Niệm tu thành Phật hiệu là A-Di-Ðà, ở cõi Cực Lạc Thế giới mà tiếp độ chúng sanh.
Còn quan đại thần Bảo Hải thì phát nguyện như sau:
"Tôi nguyện tu hành, khi thành Phật, ứng hóa về cõi Ta bà ô trược để dạy bảo chúng sanh đương ám muội đồng vãng sanh về cõi Cực Lạc Thế giới."
Do đó, quan đại thần Bảo Hải sau tu thành Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni, Giáo chủ Phật giáo ở cõi hạ giới.
II. Sự tích thứ nhì:
(Kiếp chót của Phật A-Di-Ðà).
Ngài là một khất sĩ, tên hiệu AMITA (phiên âm là A-Di-Ðà). Ðứng đầu Giáo hội khất sĩ là một Trưởng lão, đó là một vị Phật thời quá khứ tái sanh trở lại làm Trưởng lão.
Một hôm, vị Trưởng lão đến tháp thờ Phật, lén lấy cái chén bịt vàng liệng xuống gạch cho bể nát. Sau đó, Ông kêu hết thảy Tỳ kheo đến hỏi rằng:
- Ai làm rớt bể chén quí nầy?
Cả thảy Tỳ kheo đều nói là không biết, còn Amita thì làm thinh không trả lời, vì ông nghĩ rằng: Cái chén bể tất nhiên phải có người va chạm, nhưng cả thảy Tỳ kheo đều nói không biết, vậy thì ai vào đây? Không lẽ vị sư Trưởng lão?
Mà nếu không ai chịu nhận thì vụ nầy còn hạch hỏi lôi thôi nữa, trong Giáo hội ắt bị mang tiếng xấu xa. Ta nên tính cho êm xong, ta nên làm thinh để lãnh tội cho vị Tỳ kheo nào vô ý làm bể đó, cho vị ấy an lòng tu học.
Trưởng lão thấy vậy mới nói:
- Amita, ngươi lặng thinh tức là ngươi phạm tội đó. Vậy muốn cho hết tội, ngươi phải chịu phạt công quả 10 năm, mỗi buổi sáng vào rừng lượm củi, chiều tối phải nấu nước thắp đèn cho Giáo hội.
Khi đó Amita ưng chịu, thực hành công quả đủ 10 năm mà trong lòng vẫn vui vẻ, không than phiền chi cả, chứng tỏ tâm đức trọn vẹn. Trưởng lão thấy vậy rất vui mừng.
Một buổi sáng kia, Trưởng lão bèn hóa hiện ra một cái thây ma của người thế gian chết nằm tại chỗ tháp thờ Phật, thúi hôi dơ dáy, có ruồi lằn bu đậu, vòi tửa tanh hôi.
Vị Trưởng lão bảo tăng chúng đem thây đi chôn và quét rửa chỗ đó cho sạch sẽ. Ai nấy đều lảng tránh, nói rằng:
- Chúng tôi là bậc trong sạch, không làm được việc ấy. Hãy để cho Amita về làm.
Bữa ấy là đúng công quả 10 năm của Amita, nhưng Amita vẫn còn đi gánh củi làm việc như thường. Khi về gần tới Giáo hội, chư Tỳ kheo đón báo cho biết tự sự, bảo Amita về mau đặng lo chôn cất cái thây ma ấy.
Về đến cửa, Amita lật đật bỏ gánh củi xuống, lấy cuốc cầm tay, thẳng đến định vác cái thây lên vai đem chôn.
Vị Trưởng lão nói:
- Ngươi hãy đi độ cơm rồi sẽ chôn cũng không muộn.
Amita bạch rằng:
- Bạch Trưởng lão, xin để tôi đem chôn xác chết ngay, để lâu hôi thúi chỗ thờ phượng không nên. Tôi nhịn ăn một bữa cũng không sao, nhưng nhờ vậy mà tâm được an ổn.
Amita liền đến gần xác chết thì không cảm thấy hôi thúi gì hết, vác xác chết lên vai cũng không thấy nặng nề gì.
Ði được nửa đường thì cảm thấy nhẹ bổng, giựt mình ngó lại thì xác chết lại biến hóa thành một tòa sen vàng, hào quang rực rỡ, sực nức mùi hương, bay bổng lên không trung, rồi lần lần hạ xuống trước mặt Amita.
Chư Thiên, Bồ Tát đều rải hoa chào mừng và thỉnh Amita ngự lên tòa sen vàng. Lúc đó, Amita sửng sốt, chẳng biết thực giả ra sao, nên ngần ngại không dám bước lên tòa sen.
Chư Thiên và Bồ Tát thúc giục mãi, làm Amita bối rối, nhưng định tỉnh nghĩ rằng: Ta vốn là người trong sạch, dầu ma quỉ có gạt ta cũng chẳng sợ chi, ta nên bước lên tòa sen xem thử.
Amita liền bước lên tòa sen, tức thì một cảnh tượng vô cùng huyền diệu hiện ra, thân thể Amita phát ra hào quang sáng lòa, áo Phật oai nghi tề chỉnh, tinh thần an trụ tươi sáng như nhiên, các phép thần thông hiện đủ, trí huệ toàn giác. Amita đắc đạo chứng quả Như Lai.
Ngài cho tòa sen bay trở lại Giáo hội, tạ ơn Trưởng lão, rồi cùng Trưởng lão hóa hiện hào quang bay về Tây phương.
Tăng chúng đều chấp tay đảnh lễ: Nam-mô Amitabha, tức là: Nam Mô A-Di-Ðà Phật.
Phật giáo Tịnh Ðộ tông tu theo Phật A-Di-Ðà, nguyện về cõi Cực Lạc Thế giới của Ðức Phật A-Di-Ðà, nên luôn luôn trì niệm Lục tự Di-Ðà: Nam mô A-Di-Ðà Phật.
Tịnh Ðộ tông thọ trì ba bộ Kinh:
A-Di-Ðà Kinh,
Vô Lượng Thọ Kinh,
Quán Vô Lượng Thọ Kinh.
Ðức Phật A-Di-Ðà thường hiện thân đi tiếp dẫn những người có duyên phần, có hai vị Bồ Tát hầu hai bên: Bên tả là Ðức Ðại Thế Chí Bồ Tát và bên hữu là Quan Thế Âm Bồ Tát, gọi chung ba vị là Di-Ðà Tam Tôn.
Di-Ðà Tam Tôn tượng trưng ba thể tánh: Bi, Trí, Dũng của Phật.
Di-Ðà Phật tượng trưng thể tánh sáng suốt: TRÍ.
Quan Thế Âm Bồ Tát tượng trưng thể tánh: BI.
Ðại Thế Chí Bồ Tát tượng trưng thể tánh: DŨNG.
A-La-Hán
A-La-Hán
A-La-Hán là tiếng phiên âm từ chữ Phạn: Arhat, dịch nghĩa theo Hán văn là Ứng Cúng, Phá ác, Bất sanh.
Ứng cúng nghĩa là có phước đức hoàn toàn, trí huệ hơn cả, đáng làm nơi phước điền cho chúng sanh cúng dường.
Phá ác là phá tan được giặc phiền não Tam độc do Tham, Sân, Si tạo ra.
c>Bất sanh nghĩa là thoát vòng luân hồi sanh tử, không còn sanh ra tại thế gian nầy nữa.
A-La-Hán thường được gọi tắt là La-Hán. Truyền thuyết nói rằng, hồi Ðức Phật Thích Ca mới mở Ðạo Phật tại Bắc Ấn Ðộ, Phật có phái 16 vị La Hán (có sách chép 18 vị) đi ra các nước nhỏ chung quanh để truyền bá Phật đạo.
Do đó trong các chùa Phật ngày nay thường có tạc tượng 16 vị hay 18 vị La Hán để thờ, kỷ niệm việc truyền đạo nầy.
A-La-Hán là quả vị cao nhất trong 4 quả vị của hàng Thinh Văn thừa, từ thấp lên cao, kể ra:
1. Tu-Ðà-Huờn: Quả vị đầu tiên của Thinh Văn thừa.
2. Tư-Ðà-Hàm: Quả vị thứ hai của Thinh Văn thừa.
3. Na-Hàm: Quả vị thứ ba của Thinh Văn thừa.
4. La-Hán: Quả vị thứ tư của Thinh Văn thừa.
Người tu chứng bực A-La-Hán thì đạt được Lục thông (6 phép Thần thông):
Thiên Nhãn thông,
Thiên Nhĩ thông,
Tha Tâm thông,
Túc Mạng thông,
Thần Túc thông,
Lậu Tận thông.
Qua khỏi Thinh Văn thừa thì lên Bồ Tát thừa, tức là tu đặng quả vị La Hán rồi thì mới tiếp tục tu hành để lên quả vị kế tiếp là Bồ Tát.
Thinh Văn thừa thuộc về Tiểu thừa, Bồ Tát thừa thuộc về Ðại thừa.
Cả hai Tiểu thừa và Ðại thừa đều là Phật thừa.
Kinh Cứu Khổ: Chư Ðại Bồ Tát, Ngũ bá A-La-Hán cứu hộ....
Ngũ bá A-La-Hán là 500 vị A-La-Hán được Nhứt Tổ Ma-Ha Ca-Diếp chọn để lập Ðại hội kết tập Kinh điển lần nhứt của Phật giáo, sau khi Phật Thích Ca nhập Niết Bàn 4 tháng.
Cuộc kết tập nầy ở tại thành Vương Xá, Nhứt Tổ Ma-Ha Ca-Diếp làm chủ tọa.
Ngài A-Nan được cử ra đọc lại lời Phật dạy, chép thành Tạng Kinh;
Ngài Ưu-Pa-Ly đọc lại các Luật do Phật dạy chép thành Tạng Luật;
Ngài Ma-Ha Ca-Diếp đọc tạng Luận.
Người ta dùng chữ Phạn chép ba Tạng Kinh (Tam Tạng Kinh) trên lá buôn để lựu lại đời sau.
A-Nan (A-Nan-Ðà)
A-Nan (A-Nan-Ðà)
A-Nan là nói tắt của tiếng A-Nan-Ðà, do chữ Phạn là ANANDA, Hán văn dịch là Khánh Hỷ, vì Ông A-Nan được sanh ra vào ngày Ðức Phật Thích Ca thành Ðạo, dân chúng đều vui mừng, nên cha mẹ của Ngài đặt tên Ngài là Ananda, nghĩa là khánh hỷ. Như vậy, Ngài nhỏ hơn Phật Thích Ca 35 tuổi.
A-Nan là con của Hộc Phạn, em ruột của Ðề-Bà-Ðạt-Ða, và cũng là em bà con chú bác với Ðức Thích Ca.
Ngài có nhiều tướng tốt, thông minh tuyệt vời, có một trí nhớ tuyệt hảo. Ðến năm 25 tuổi, A-Nan xin xuất gia theo Phật Thích Ca. Ngài làm Thị giả, hầu cận bên Ðức Phật suốt 20 năm, nên đã nghe và ghi nhớ được tất cả những bài thuyết pháp của Phật.
Phật Thích Ca khen Ngài A-Nan: "Thị giả của các Ðức Phật thời quá khứ, không ai hơn A-Nan, Thị giả các Ðức Phật thời vị lai cũng không ai hơn A-Nan.”
A-Nan là người rất quan tâm đến việc mở rộng Phật giáo cho Nữ phái tu học, nhưng Ðức Phật Thích Ca chưa chấp thuận.
Một hôm, A-Nan đi khất thực về đến Tịnh Xá thấy Bà Ma-Ha Bà-Xà-Ðề (dì ruột và cũng là mẹ nuôi Thái Tử Sĩ-Ðạt-Ta) đang đứng tựa cửa khóc, áo quần đầy bụi, chân dính bùn dơ.
Ngài hỏi duyên cớ. Bà cho biết Bà từ xa đi bộ đến tìm Phật xin qui y, năn nỉ đôi ba phen mà Phật không chấp thuận.
A-Nan rất cảm động, liền vào làm lễ Phật và xin Phật cho Bà xuất gia. Phật vẫn từ chối mà không nói lý do.
A-Nan vẫn kiên trì cầu xin nhiều lần sau nầy cho được mới thôi. Cuối cùng thì Ðức Phật cũng phải chấp nhận cho Bà di mẫu xuất gia, lập thành Giáo hội Tỳ Kheo Ni. Sau nầy, toàn thể Giáo hội Tỳ Kheo Ni đều hết lòng biết ơn A-Nan.
Phật cho biết, đối với Nữ phái, không phải Phật không từ bi, nhưng nếu Phật không cho Nữ phái xuất gia thì Chánh Pháp của Phật tồn tại được 1000 năm, nay cho Nữ phái xuất gia thì Chánh Pháp của Phật chỉ tồn tại 500 năm mà thôi.
Ngài A-Nan hỏi Phật về cách đối đãi với Nữ phái:
- Bạch Phật, chúng tôi phải đối xử với Nữ phái thế nào?
- Nầy A-Nan, dường như không thấy.
- Nhưng đã thấy rồi thì chúng tôi phải làm thế nào?
- Nầy A-Nan, không nên nói chuyện.
- Nhưng nếu được hỏi thì chúng tôi phải làm thế nào?
- Nầy A-Nan, cẩn thận đề phòng, giữ vững Chánh niệm.
Khi Ðức Phật sắp nhập Niết Bàn, Ðức Phật gọi Ma-Ha Ca-Diếp đến, truyền Y Bát cho làm Nhứt Tổ, và Phật dặn về sau sẽ truyền cho A-Nan làm Nhị Tổ.
Khi Nhứt Tổ Ma-Ha Ca-Diếp đem Chánh pháp nhãn tạng truyền lại cho A-Nan làm Nhị Tổ, có nói bài kệ:
Pháp pháp bổn vô pháp, Vô pháp vô phi pháp, Hà ư nhứt pháp trung, Hữu pháp hữu phi pháp?
Dịch nghĩa:
Các pháp gốc không pháp, Không pháp, không phi pháp, Tại sao trong một pháp, Có pháp, có phi pháp?
Về sau, Nhị Tổ A-Nan chọn người học trò xuất sắc là Thương-Na-Hòa-Tu, để truyền Y Bát, nên gọi đến nói rằng:
Xưa, Ðức Thế Tôn đem Chánh pháp nhãn tạng phú thác cho sư huynh ta là Ma-Ha Ca-Diếp làm Nhứt Tổ, sau Nhứt Tổ truyền lại cho ta. Nay ta phú chúc lại cho ngươi làm Tam Tổ.
Vậy ngươi phải hết lòng trân trọng, thọ trì xiển dương Phật pháp hóa độ chúng sanh. Hãy nghe kệ mà ấn tâm:
Bổn lai truyền hữu pháp, Truyền liễu ngôn vô pháp, Các các tu tự ngộ, Ngộ liễu vô vô pháp.
Dịch nghĩa:
Xưa nay truyền có pháp, Truyền rồi nói không pháp, Thảy thảy tu tự ngộ, Ngộ rồi không không pháp.
Ngài A-Nan dùng thuyền ra giữa dòng sông Hằng, nhập Niết Bàn. Ngài dặn đệ tử rằng: Khi thiêu xác ta thì chia xá lợi ra làm 4 phần:
Một phần giao cho cõi Trời Ðạo Lỵ,
Một phần giao cho Long Vương,
Một phần giao cho vua A-Xà-Thế,
Một phần giao cho vua Tỳ-Xá-Ly, để xây tháp cúng dường.
Lúc sinh thời, Ngài A-Nan nổi tiếng là đa văn quảng kiến, có trí nhớ tuyệt vời, làm Thị giả cho Phật suốt 20 năm, được Phật khen ngợi, nhờ vậy mà Ngài đọc lại rất đúng lời Phật dạy trước 500 vị A-La-Hán, kết tập chép ra thành Kinh Tạng. Ngài cũng là ân nhân của Giáo hội Tỳ Kheo Ni.
Kinh Cứu Khổ:
Phật cáo A-Nan ngôn thử kinh Ðại Thánh....
Last updated
Was this helpful?