Thánh Ngôn Hợp Tuyển I II Hợp Nhứt và Chú Thích
Last updated
Was this helpful?
Last updated
Was this helpful?
Lời Tường Trình
ID20274 - Chương : Lời Tường Trình
Lời Tường Trình
Quyển Thánh Ngôn Hiệp Tuyển I & II Hợp Nhứt & Chú Thích do Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng dày công sưu khảo và biên soạn, có thể nói đây là quyển sách đầu tiên đã hệ thống hóa và dẫn giải toàn bộ hai quyển Thánh Ngôn Hiệp Tuyển q.1 & 2 của Hội Thánh đã ban hành trước năm 1975.
Vì Hội Thánh do theo Tân Luật và Pháp Chánh Truyền của Ðức Chí Tôn thành lập đã bị quyền đời bức hiếp phải giải thể cho nên quyển Thánh Ngôn Hiệp Tuyển I & II Hợp Nhứt & Chú Thích và nhiều quyển sách khác của Ông vẫn chưa được Hội Thánh kiểm duyệt và phê chuẩn, để có một giá trị phổ quát cho toàn đạo lưu dùng. Dầu vậy, nhưng hầu hết đã được lưu hành rộng rải cả trong và ngoài nước để chư tín đồ góp ý và tham khảo.
1. Ngày của Ta xuống trần dạy Ðạo bên Thái Tây
ID20275 - Chương : 1. Ngày của Ta xuống trần dạy Ðạo bên Thái Tây
1. Ngày của Ta xuống trần dạy Ðạo bên Thái Tây
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ VIẾT CAO ÐÀI GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG
Ðêm 24-12-1925 (âl 9-11-Ất Sửu). Noel 1925Muôn kiếp có ta nắm chủ quyền, Vui lòng tu niệm hưởng ân Thiên. Ðạo mầu rưới khắp nơi trần thế, Ngàn tuổi muôn tên giữ trọn biên.
Ðêm nay, 24 Décembre, phải vui mầng vì là ngày của Ta xuống trần dạy Ðạo bên Thái Tây (Europe).
Ta rất vui lòng mà đặng thấy đệ tử kính mến Ta như vậy.
Nhà nầy sẽ đầy ơn Ta. (Nhà của M. C...)
Giờ ngày gần đến, đợi lịnh nơi Ta. Ta sẽ làm cho thấy huyền diệu đặng kính mến Ta hơn nữa.
CHIÊU KỲ TRUNG độ dẫn HOÀI sanh, BẢN đạo khai SANG QUÍ GIẢNG thành. HẬU ÐỨC TẮC CƯ Thiên Ðịa cảnh, HUỜN MINH MÂN đáo thủ đài danh.
(Mười hai chữ lớn trong ba câu trên là tên của 12 người môn đệ trước hết của của Ðức Ngọc Hoàng Thượng Ðế. Còn ba chữ xiên lớn trong câu chót là tên của 3 vị hầu đàn).
CHÚ THÍCH:
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ viết CAO ÐÀI TIÊN ÔNG ÐẠI BỒ TÁT MA HA TÁT giáo đạo Nam phương: Ðấng Ngọc Hoàng Thượng Ðế gọi là Ðấng Cao Ðài Tiên Ông Ðại Bồ Tát Ma Ha Tát, dạy đạo tại nước Việt Nam.
✦ Theo Ðạo Sử, Ðức Chí Tôn đến với nhóm xây bàn (gồm ba Ông: Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc, Cao Hoài Sang) vào hạ tuần tháng 7 năm Ất Sửu (1925) với danh xưng là A Ă Â. Khi dạy đạo cho ba ông thì Ðức Chí Tôn xưng là Thầy và gọi các ông là môn đệ.
Vì lời cam kết nên ba ông không dám tìm hiểu Ðấng A Ă Â là ai, chỉ biết đó là một Ðấng có quyền uy rất lớn nơi cõi vô hình.
Mãi đến đêm Noel, 24 rạng 25 tháng 12 năm 1925, Ðấng A Ă Â mới giáng cơ cho bài Thánh Ngôn trên, cho biết Ngài là Ðấng Ngọc Hoàng Thượng Ðế, nay gọi là Ðấng Cao Ðài Tiên Ông Ðại Bồ Tát Ma Hát, giáng cơ dạy đạo ở nước Việt Nam.
Décembre (tiếng Pháp): Tháng 12 dương lịch.
Europe (tiếng Pháp): Châu Âu.
Thái Tây: Thái là thịnh vượng. Thái Tây là các nước cường thịnh ở phương Tây, tức là các nước ở Châu Âu gồm: Anh, Pháp, Ý, Ðức, Hòa Lan, Bồ Ðào Nha, vv. . .
M. C...: viết tắt Monsieur Cư: Ông Cư (Cao Quỳnh Cư). Nhà của Ông Cư lúc đó ở 134 đường Bourdais Sài Gòn.
Ðêm 24 tháng 12 là đêm giáng sinh của Ðức Chúa Jésus Christ ở nước Do Thái. Ngài là con yêu quí của Ðấng Thượng Ðế, thay mặt Thượng Ðế giáng trần mở đạo Thiên Chúa ở nước Do Thái và truyền bá qua các nước Âu Châu.
✦ Bài thi bốn câu có tên 12 môn đệ đầu tiên của Ðức Chí Tôn, theo ÐS.I.50 thì Ðức Chí Tôn giáng vào đêm mùng 8 rạng mùng 9 tháng Giêng năm Bính Dần (dl 21-2-1926) tại đàn cơ thiết lập nơi nhà Ông Vương Quan Kỳ, số 80 đường Lagrandière, Sài Gòn, nhân Lễ Vía Ðức Chí Tôn.
Ngài Ngô Văn Chiêu chứng đàn, Ðức Chí Tôn cho bài thi "Bửu tòa thơ thới trổ thêm hoa .. . . . .", khi ấy Ngài Ngô Văn Chiêu xin Ðức Chí Tôn cho bài thi có tên các môn đệ đầu tiên làm kỷ niệm.
12 môn đệ có tên trong bài thi kể ra sau đây:
CHIÊU: Ngô Văn Chiêu.
KỲ: Vương Quan Kỳ, đắc phong Thượng Giáo Sư.
TRUNG: Lê Văn Trung, đắc phong Ðầu Sư Thượng Trung Nhựt, sau thăng Quyền Giáo Tông.
HOÀI: Nguyễn Văn Hoài, tức là ông Phán Hoài.
BẢN: Ðoàn Văn Bản, đắc phong Thượng Giáo Sư.
SANG: Cao Hoài Sang, đắc phong Thượng Sanh.
QUÍ: Lý Trọng Quí.
GIẢNG: Lê Văn Giảng, đắc phong Thượng Giáo Hữu.
HẬU: Nguyễn Trung Hậu, đắc phong Bảo Pháp.
ÐỨC: Trương Hữu Ðức, đắc phong Hiến Pháp.
TẮC: Phạm Công Tắc, đắc phong Hộ Pháp.
CƯ: Cao Quỳnh Cư, đắc phong Thượng Phẩm.
Ngài Ngô Văn Chiêu tách khỏi nhóm Phổ độ của quí Ngài Lê Văn Trung và Phạm Công Tắc để chuyên bề tu đơn, sau đó Ngài Ngô về Cần Thơ lập Chi phái Chiếu Minh.
Hai Ông Nguyễn Văn Hoài và Lý Trọng Quí theo Ngài Ngô Văn Chiêu tu trong phái Chiếu Minh, sau Ông Lý Trọng Quí (cũng có tên là Hồ Vinh Quí) lại tách riêng lập Chiếu Minh Ðàn Cần Thơ, có ra cuốn Kinh Tam Nguơn Giác Thế vào năm Tân Mùi (1931).
Ông Vương Quan Kỳ tách khỏi Tòa Thánh Tây Ninh vào năm 1930, lập Chi phái Cầu Kho ở Sài Gòn.
Bài thi bốn câu Hán văn có tên 12 môn đệ đầu tiên của Ðức Chí Tôn viết ra chữ Hán như sau:
招旗忠度引懷生 本道開創貴講成 厚德則居天地境 還明旻到守臺名
GIẢI THÍCH:
Câu 1: CHIÊU KỲ TRUNG độ dẫn HOÀI sanh:
Bốn vị: Chiêu, Kỳ, Trung, Hoài có phận sự độ dẫn nhơn sanh, độ cả thai nhi còn trong bụng mẹ.
Câu 2: BẢN đạo khai SANG QUÍ GIẢNG thành:
Nền Ðạo do Ta (Ðức Chí Tôn) mở ra nhờ bốn vị: Bản, Sang, Quí, Giảng mà đặng thành tựu.
Câu 3: HẬU ÐỨC TẮC CƯ Thiên Ðịa cảnh:
Bốn vị: Hậu, Ðức, Tắc, Cư cùng ở nơi cõi gọi là Thiên Ðịa cảnh.
Câu 4: HUỜN MINH MÂN đáo thủ đài danh:
Ba vị: Huờn, Minh, Mân đến giữ cái đài của Ta.
2. Thủ cơ - Chấp bút
2. Thủ cơ - Chấp bút
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ VIẾT CAO ÐÀI GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG
Ngày 3-1-1926 (âl 19-11-Ất Sửu).
Thủ cơ hay là Chấp bút phải để cho thần, tâm tịnh mới xuất Chơn thần ra khỏi phách đặng hầu Thầy nghe dạy.
Khi chấp thủ thì tay tuân theo Chơn thần nói lại mà viết ra, mường tượng như con đặt để, con hiểu đặng vậy.
Chơn thần là gì ?
Là nhị xác thân (périsprit), là xác thân thiêng liêng. Khi còn ở nơi xác phàm thì rất khó xuất riêng ra đặng, bị xác phàm kéo níu.
Cái Chơn thần ấy của các Thánh, Tiên, Phật là huyền diệu vô cùng, bất tiêu bất diệt. Bậc chơn tu khi còn xác phàm nơi mình, như đắc đạo, có thể xuất ra trước buổi chết mà vân du Thiên ngoại. Cái Chơn thần ấy mới đặng phép đến trước mặt Thầy.
Như chấp cơ mà mê thì Chơn thần ra trọn vẹn khỏi xác. Thầy mới dạy nó viết chữ chi đó, nó đồ theo, Thầy nói tên chữ, xác nó cầm cơ viết ra, người đọc trật chữ, nó nghe đặng, không chịu, Thầy buộc viết lại và rầy kẻ đọc trật ấy.
Còn chấp bút, khi Thầy đến thì làm cho thần con bất định một lát, cho thần xuất ra nghe Thầy dạy, còn tay con tuân theo mà viết. Ấy là một phần của con, một phần của Thầy hiệp nhứt, mới thấu đáo Càn khôn, tinh thông vạn vật đặng.
Trước khi thủ cơ hay là chấp bút, thì phải thay y phục cho sạch sẽ, trang hoàng, tắm gội cho tinh khiết, rồi mới đặng đến trước bửu điện mà hành sự, chớ nên thiếu sót mà thất lễ. Nếu chấp cơ thì phải để ý thanh bạch, không đặng tưởng đến việc phàm. Tay chấp cơ cũng phải xông hương khử trược, tịnh tâm một lát, rồi phải để tinh thần tinh tấn mà xuất ngoại xác, đến hầu dạy việc.
Phải có một Chơn linh tinh tấn mới mầu nhiệm, huyền diệu, phải trường trai mới đặng linh hồn tinh tấn, phải tập tành chí Thánh, Tiên, Phật, mới phò cơ dạy đạo cả chúng sanh. Kẻ phò cơ, chấp bút cũng như tướng soái của Thầy để truyền đạo cho thiên hạ.
Các con đừng tưởng việc bút cơ là việc tầm thường. Còn việc truyền thần lấy điển quang thì ai ai cũng có điển trong mình, nó tiếp điển ngoài rồi thần của nó viết ra, có khi trúng, có khi trật.
Vậy khi nào chấp cơ thì phải đợi lịnh Thầy rồi sẽ thi hành.
CHÚ THÍCH:
Thủ: Tay, cầm bằng tay.
Chấp: Cầm giữ.
Thủ cơ: đồng nghĩa với Chấp cơ, Phò cơ, Phò loan.
Phách: Trong trường hợp nầy, Phách là thể xác.
Thủ cơ: cần hai vị đồng tử ngồi hai bên ngọc cơ, mỗi vị dùng hai bàn tay nâng ngọc cơ lên. Khi có một Ðấng giáng thì tay của đồng tử đẩy ngọc cơ chuyển động, đầu cơ viết ra chữ.
Chấp bút: thì chỉ cần một đồng tử, tay cầm viết đặt trên một tờ giấy trắng. Khi có một Ðấng thiêng liêng giáng thì tay cầm bút chuyển động và viết ra chữ trên giấy.
Chấp thủ: Thủ cơ và Chấp bút.
Nhị xác thân: Xác thân thứ nhì. Con người có Tam thể:
Thể thứ nhứt là Xác thân phàm do cha mẹ phàm trần sanh ra và được nuôi dưỡng bằng vật chất phàm trần;
Thể thứ nhì gọi là Nhị xác thân, là xác thân thiêng liêng hay Chơn thần, do Ðức Phật Mẫu dùng nguyên khí nơi Diêu Trì Cung tạo nên;
Thể thứ ba là Chơn linh hay linh hồn, là điểm Linh quang do Ðức Chí Tôn ban cho. Chơn linh điều khiển Chơn thần, Chơn thần điều khiển xác phàm.
Vân du Thiên ngoại: Vân du là đi chơi thong thả như đám mây bay. Thiên ngoại là ngoài bầu Trời, tức là những thế giới khác ở ngoài Ðịa cầu.
Thần: Chơn thần. Tinh thông: Hiểu biết tường tận.
Xông hương khử trược: Ðốt chất thơm như trầm hay nhang thơm để khói thơm bay lên tỏa ra xung quanh làm cho mất hết các mùi ô trược.
Tịnh tâm: Giữ tâm cho trong sạch, tức là giữ tư tưởng cho trong sạch, không nghĩ việc quấy.
Tinh tấn: Trong sạch và tiến hóa.
3. Phải chung lo cho danh đạo Thầy
3. Phải chung lo cho danh đạo Thầy
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ VIẾT CAO ÐÀI GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG
Ðêm 20-2-1926 (âl 8-1-Bính Dần): Vía Ðức Chí Tôn.Bửu tòa thơ thới trổ thêm hoa, Mấy nhánh rồi sau cũng một nhà. Chung hiệp rán vun nền đạo đức, Bền lòng son sắt đến cùng Ta. Nguồn Tiên tầm Ðạo dễ gì đâu? Quyền phép Càn khôn một túi thâu. Thoát xác xưa tầng tu vạn kiếp, Ðộ hồn nay gội khắp năm châu. Tìm hiền lắm lúc gieo nguồn đạo, Cải dữ đòi phen cổi mạch sầu. Trần khổ dầu ai chơn muốn lánh, Ngày thành Chánh quả có bao lâu?
Cái nhánh các con là nhánh chính mình Thầy làm chủ, sau các con sẽ hiểu.
Thầy vui muốn cho các con thuận hòa cùng nhau hoài, ấy là lễ hiến cho Thầy rất trân trọng. Phải chung lo cho danh đạo Thầy.
Ðạo Thầy tức là các con, các con tức là Thầy. Phải làm cho nhau đặng thế lực, đừng ganh gổ nghe! Các con giữ phận làm tùy ý Thầy muốn, ngày kia sẽ rõ thấu ý muốn của Thầy.
Vào vòng huynh đệ khá thương nhau, Một đức trổi hơn một phẩm cao. Quyết chí Thiên đường men bước tới, Phải nhiều máu thịt mới đồng bào.
Các con phải hiểu rằng: Thầy là huyền diệu thế nào! Cách dạy, Thầy buộc tùy thông minh của mỗi đứa mà dạy. Dầu cho thầy phàm tục cũng phải vậy, nếu đứa dở mà dạy cao kỳ, nó biết đâu mà hiểu đặng.
Thầy cấm không cho dị nghị việc người, nhứt là đạo hữu của các con thì đừng phạm đến kẻo tội nghiệp. Chi chi cũng phải nhớ quyết rằng có Thầy trong đó.
Chẳng quản đồng tông mới một nhà, Cùng nhau một Ðạo tức một Cha. Nghĩa nhân đành gởi thân trăm tuổi, Dạy lẫn nhau cho đặng chữ hòa.
Thầy dặn các con một điều, nhứt nhứt đều đợi lịnh Thầy, chẳng nên lấy tứ riêng mà phán đoán chi hết. Phận sự và trách nhiệm các con, Thầy đã định trước, song giờ ngày chưa đến, phải tuân lời Thầy nghe!
Từ đây, Thầy khởi sự dạy Ðạo cho... .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Trên Bạch Ngọc Kinh có đủ Nam và Nữ, các con chớ lầm tưởng là phân biệt. Có các Ðấng Nữ Tiên, Nữ Phật còn lớn quyền hơn Nam nhiều.
Tr. . . đã thọ mạng nơi Thầy, con đi đâu Thầy theo đó. Lời đạo đức trong miệng con nói ra, ấy là lời Thầy bố hóa tâm trí con đặng đi truyền đạo, tùy cơ mà dạy kẻ, một mình con đâu đủ sức phục người. Chẳng luận là Nam hay Nữ, bất kỳ là nước nào, nó muốn biết đạo lý, con phải độ, biểu chúng nó đến nghe Thầy dạy mới có thế nó tu hành đặng, trước con không nên buộc chúng nó lắm.
Thầy nói một lần từ đây nhớ lấy: Dầu cho sắt đá cỏ cây, mà nghe đến Thánh Ngôn nơi Thầy do con nói ra cũng hoan nghinh, huống lựa là người. Con nhớ và an lòng.
Ðã thấy ven mây lố mặt dương, Cùng nhau xúm xít dẫn lên đường. Ðạo cao phó có tay cao độ, Gần gũi sau ra vạn dặm trường.
Thầy đã hằng ngày nói với con rằng: Muôn việc chi Thầy đã bố hóa vào lòng con, như con tính điều chi, tức Thầy đã định rồi. Con không cần nặng lòng lo lắng. Ðạo cốt để cho kẻ hữu duyên. Những kẻ nào đã làm môn đệ của Tà Thần Tinh Quái thì không thế gì làm môn đệ Thầy đặng.
Lẽ Chánh tự nhiên có lẽ Tà. Chánh Tà hai lẽ đoán sao ra. Sao ra Tiên Phật người trần tục, Trần tục muốn thành phải đến Ta.
Những kẻ đã hưởng hết phúc hậu từ mấy đời trước, nay lại còn phạm Thiên điều, thì tội tình ấy thế chi giải nổi. Mấy con biết luật hình thế gian còn chưa tư vị thay, huống là Thiên điều thì tránh sao cho lọt? Dầu các con như vậy thì Thầy cũng lấy oai linh ấy mà trừng trị chớ không tư vị bao giờ.
Phải lo sợ tội tình cho lắm. Phải có sợ mới có giữ mình, biết sợ phải biết giữ mình. Phải hiểu rõ rằng: Thiên Ðịa vô tư, đừng ỷ là có Ðại Từ Phụ mà lờn oai, nghe các con!
CHÚ THÍCH:
Mấy nhánh: Ý nói Tam giáo, gồm Phật giáo, Lão giáo, Nho giáo; hay tổng quát hơn, đó là Ngũ Chi Ðại đạo: Phật đạo, Tiên đạo, Thánh đạo, Thần đạo, Nhơn đạo.
Mấy nhánh rồi sau cũng một nhà: Ðây là tôn chỉ của Ðạo Cao Ðài: Tam giáo qui nguyên, Ngũ Chi phục nhứt.
Câu thơ: Cùng nhau một đạo tức một Cha:
Các quyển TNHT in vào các năm: 1928, 1931, 1950, 1955, 1957, tức là trước năm 1962, đều in là một Cha.
Các quyển TNHT in sau năm 1962 như: 1964, 1969, 1972, đều in là cùng Cha. Sửa chữ một thành chữ cùng để cho đúng niêm luật của bài thơ.
Ðối với bực thi sĩ bình thường thì cần giữ niêm luật thơ, nhưng đối với bực thi bá, và trên nữa là Thi Tiên, Thi Phật, thì niêm luật thơ không còn là vấn đề quan trọng số một nữa, mà ý nghĩa của câu thơ mới là hàng đầu.
Dùng chữ một Cha, tuy có thất niêm, nhưng mới thể hiện một cách rõ nét Triết lý Duy Nhứt: chỉ có một Ông Trời, một Thượng Ðế, một Cha Trời, không thể có hai Ông Trời, hai Thượng Ðế, hai Cha Trời.
Tr. . .: Viết tắt của chữ Trung, tên của Ðức Quyền Giáo Tông (Lê Văn Trung).
Bố hóa: Ban bố và giáo hóa.
Thiên điều: Luật Trời. Thiên điều do chư Phật chư Tiên họp tại Ngọc Hư Cung lập thành để cai trị toàn thể Càn khôn Vũ trụ. Phạm Thiên điều là một trọng tội.
Thiên Ðịa vô tư: Trời Ðất không có lòng riêng, tức là không tư vị ai hết, xử sự rất công bằng. Sách Nho cũng có viết rằng:"Thiên Ðịa vô tư, Thần minh thời sát, bất vị tế hưởng nhi giáng phúc, bất vị thất lễ nhi giáng họa."
Nghĩa là:
Trời Ðất không riêng, Thần minh thường xét, không vì hưởng cúng tế mà ban phước, không vì sự thất lễ mà giáng cho tai họa.
Ðại Từ Phụ: Mỗi người nơi cõi phàm trần đều có xác thân phàm trần do cha mẹ phàm trần sanh ra và được nuôi dưỡng bằng các vật chất phàm trần; ngoài ra con người còn có Chơn thần do Ðức Phật Mẫu tạo ra, và linh hồn do Ðức Chí Tôn ban cho.
Do đó, Ðức Chí Tôn và Ðức Phật Mẫu là hai Ðấng Cha Mẹ chung thiêng liêng của toàn nhơn loại, nên gọi Ðức Chí Tôn là Ðại Từ Phụ và Ðức Phật Mẫu là Ðại Từ Mẫu.
4. Một điểm quang minh là một hồn người
4. Một điểm quang minh là một hồn người
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ viết CAO ÐÀI TIÊN ÔNG ÐẠI BỒ TÁT MA HA TÁT giáo đạo Nam phương
Ngày 23-2-1926 (âl 11-1-Bính Dần).Dạy trẻ con toan trước dạy mình, Cái công giáo hóa cũng đồng sinh. Ðạo đời tua biết rằng đời trọng, Một điểm quang minh một điểm linh. (Thi hứa giáo tập)
Nghĩa là: Sắp nhỏ của con dạy, sau cũng nên người ở đời. Ấy là đời. Nếu biết trọng đời thì gắng dạy nó nên hiền.
Một điểm quang minh là một hồn người, là vật tối linh của Thầy trân trọng. Nếu con muốn làm lành thì gắng dạy mấy hồn ấy đặng hiền. (Lời giải 2 câu thi sau)
CHÚ THÍCH:
Tua: Phải, ý buộc. (Từ ngữ xưa, ngày nay ít dùng).
Một điểm quang minh một điểm linh: Ðó là điểm Linh quang mà Ðức Chí Tôn chiết ra từ khối Ðại Linh quang của Ngài ban cho mỗi người làm linh hồn, để gìn giữ sự sống và để điều khiển chơn thần và thể xác.
Thi hứa giáo tập: Ðức Chí Tôn ban thơ văn để dạy học. Thi là thơ văn, hứa là thuận cho, giáo tập là dạy cho học tập.
5. Lạy là gì?
5. Lạy là gì?
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ viết CAO ÐÀI TIÊN ÔNG ÐẠI BỒ TÁT MA HA TÁT giáo đạo Nam phương
Ngày 25-2-1926 (âl 13-1-Bính Dần).
I. Trung ! Vô giữa bái lễ cho Thầy coi.
Con làm lễ trúng, song mỗi gật con nhớ niệm Câu Chú của Thầy: NAM MÔ CAO ÐÀI TIÊN ÔNG ÐẠI BỒ TÁT MA HA TÁT.
Ðại Lễ là làm lễ ba lần:
Lần đầu dâng hương và hoa,
Lần giữa dâng rượu,
Lần chót dâng trà.
Phải chính mình con dâng các lễ ấy.
Khi bái lễ, hai tay con chấp lại, song phải để tay trái ấn Tý, tay mặt ngửa ra nằm dưới, tay trái chụp lên trên.
Từ đây (25-2-1926, 13 tháng Giêng năm Bính Dần), con phải may riêng bộ áo lễ tay rộng, cổ trịch như áo đạo, nhưng dải gài chín mối, màu xanh da trời. Con nhớ mang giày gai đặng hầu Thầy, còn nhứt nhứt đều để chơn không hết.
II. Lạy là gì? Là tỏ ra bề ngoài lễ kỉnh trong lòng.
Chấp hai tay lạy là tại sao? Tả là nhựt, hữu là nguyệt, vị chi âm dương. Âm dương hiệp nhứt phát khởi Càn khôn, sanh sanh hóa hóa, tức là Ðạo.
Lạy kẻ sống 2 lạy là tại sao? Là nguồn cội của nhơn sanh lưỡng hiệp âm dương mà ra. Ấy là Ðạo.
Vong phàm lạy 4 lạy là tại sao? Là vì hai lạy của phần người, còn một lạy Thiên, một lạy Ðịa.
Lạy Thần, lạy Thánh 3 lạy là tại sao? Là lạy Ðấng vào hàng thứ ba của Trời và cũng chỉ rằng lạy Tinh, Khí, Thần hiệp nhứt. Ấy là Ðạo.
Lạy Tiên, lạy Phật 9 lạy là tại sao? Là tại chín Ðấng Cửu Thiên Khai Hóa.
Còn lạy Thầy 12 lạy là tại sao? Các con không hiểu đâu.
Thập nhị Khai Thiên là Thầy, chúa cả Càn khôn Thế giới, nắm trọn Thập nhị Thời Thần vào tay. Số 12 là số riêng của Thầy.
III. Chưa phải hồi các con biết đặng tại sao vẽ Thánh Tượng Con Mắt mà thờ Thầy, song Thầy nói sơ lược cho hiểu chút đỉnh:
Nhãn thị chủ tâm, Lưỡng quang chủ tể, Quang thị Thần, Thần thị Thiên, Thiên giả Ngã dã.
THẦN là khiếm khuyết của cơ mầu nhiệm từ ngày Ðạo bị bế. Lập Tam Kỳ Phổ Ðộ nầy, duy Thầy cho THẦN hiệp TINH, KHÍ đặng hiệp đủ Tam Bửu là cơ mầu nhiệm siêu phàm nhập Thánh.
Các con nhớ nói vì cớ nào thờ Con Mắt Thầy cho chư Ðạo hữu nghe.
Phẩm vị Thần, Thánh, Tiên, Phật, từ ngày Ðạo bị bế, thì luật lệ hỡi còn nguyên, luyện pháp chẳng đổi, song Thiên đình mỗi phen đánh tản THẦN không cho hiệp cùng TINH, KHÍ.
Thầy đến đặng huờn nguyên Chơn thần cho các con đắc đạo. Con hiểu "Thần cư tại Nhãn". Bố trí cho chư Ðạo hữu con hiểu rõ. Nguồn cội Tiên Phật do yếu nhiệm là tại đó.
Thầy khuyên con mỗi phen nói Ðạo, hằng nhớ đến danh Thầy.
CHÚ THÍCH:
Bài Thánh Ngôn nầy có ba phần rõ rệt:
Phần I: Ðức Chí Tôn dạy Ngài Ðầu Sư Thượng Trung Nhựt bái lễ và dạy may Ðạo phục Thượng Ðầu Sư.
Phần II: Ðức Chí Tôn dạy về năm cách lạy.
Phần III: Ðức Chí Tôn dạy về ý nghĩa thờ Thiên Nhãn.
I. Phần I có chép trong ÐS.I.104, đề ngày Thứ sáu, 25-2-1926, tại nhà của Ðức Cao Thượng Phẩm số 134 đường Bourdais, Phò loan: Hộ Pháp - Thượng Phẩm.
Câu Chú: là câu niệm huyền bí của một Ðấng thiêng liêng đặt ra để hộ trì các môn đệ trên bước đường tu hành.
Câu Chú của Thầy có 12 chữ bao gồm Tam giáo:
Cao Ðài: tượng trưng Nho giáo.
Tiên Ông: tượng trưng Lão giáo hay Tiên giáo.
Ðại Bồ Tát Ma Ha Tát: tượng trưng Phật giáo.
Ngày nay Ðức Chí Tôn dùng Câu Chú nầy có mục đích Qui nguyên Tam giáo, tức là đem Tam giáo (Nho, Phật, Lão) về một gốc, gốc đó là Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Ðế.
Ðức Chí Tôn dặn Ngài Ðầu Sư Thượng Trung Nhựt: "Còn đồ sắc phục của con duy để làm lễ Thầy mà thôi. Nếu con bận nó đến nơi nào thì chư Thần Thánh Tiên Phật đều phải tránh hết."
II. Ðức Chí Tôn dạy năm cách lạy:
1. Lạy người sống: 2 lạy đứng, tức là một lạy Dương, một lạy Âm. Lạy đứng là đứng lên rồi lạy xuống, rồi đứng lên và lạy xuống, hai lần là hai lạy.
2. Lạy vong phàm: Vong phàm là người thường chết. Lạy vong phàm 4 lạy gồm hai lạy quì và hai lạy đứng. Hai lạy quì là một lạy kỉnh Thiên, một lạy kỉnh Ðịa. Hai lạy đứng là về phần người: một lạy Dương, một lạy Âm.
3. Lạy Thần, lạy Thánh: 3 lạy quì.
4. Lạy Tiên, lạy Phật: 9 lạy quì. Cách lạy: Quì lạy ba lạy, mỗi lạy gật đầu ba gật, tổng cộng chín gật thế cho chín lạy. Mỗi gật niệm danh hiệu của vị Tiên hay vị Phật đó.
5. Lạy Ðức Chí Tôn: 12 lạy quì. Cách lạy: Quì lạy ba lạy, mỗi lạy bốn gật, tổng cộng là mưới hai gật thế cho mười hai lạy, mỗi gật niệm Câu Chú của Thầy.
Trong năm cách lạy nầy, hai bàn tay đều bắt Ấn Tý. Ấn Tý là ấn đặc biệt của Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ.
Thời Nhứt Kỳ Phổ Ðộ, Ðức Thái Thượng Ðạo Tổ mở Ðạo Tiên, dạy cách lạy hai bàn tay chấp nắm co lại, nhìn vào giống như cái hoa còn búp.
Thời Nhị Kỳ Phổ Ðộ, Ðức Phật Thích Ca mở Ðạo Phật, dạy cách lạy hai bàn tay xòe thẳng ra rồi úp lại, khi lạy xuống, hai bàn tay mở ra để ngửa, như cái hoa nở.
Nay đến thời Tam Kỳ Phổ Ðộ, Ðức Chí Tôn mở Ðạo Cao Ðài, dạy chấp hai tay bắt Ấn Tý, giống như trái cây có cái hột bên trong, tức là kết quả, khi lạy xuống thì hai bàn tay xòe ra và úp xuống, hai ngón cái gác tréo nhau, tượng trưng việc gieo hột giống xuống đất.
Như vậy, Tam Kỳ Phổ Ðộ là thời kỳ chót trong một chu trình: Trổ hoa và hoa còn búp, kế đó là hoa nở, rồi hoa kết thành trái và lấy hột gieo xuống đất, để sau đó cây mọc lên và tạo một chu trình kế tiếp tiến hóa hơn.
Chín Ðấng Cửu Thiên Khai Hóa: Chín Ðấng Tiên Phật mở ra chín từng Trời và giúp sự tiến hóa trong chín từng Trời ấy. Cửu Thiên hay Cửu Trùng Thiên là chín từng Trời.
Thập nhị Khai Thiên: Mười hai Ðấng Tiên Phật mở ra 12 từng Trời. Các Ðấng nầy do Ðức Chí Tôn hóa thân ra. Mười hai từng Trời nầy chia ra hai phần:
Bên dưới là 9 từng Trời gọi là Cửu Trùng Thiên.
Bên trên là 3 từng Trời gồm: Hư Vô Thiên, Hội Nguơn Thiên, Hỗn Nguơn Thiên.
Thập nhị Thời Thần: 12 vị Thần cai quản 12 khoảng thời gian. Ðức Chí Tôn chia chu trình sáng tạo và tiến hóa của Càn Khôn vũ trụ và vạn vật làm 12 khoảng thời gian, đặt tên theo Thập nhị Ðịa Chi (12 con giáp: Tý, Sửu, Dần, Mẹo,...).
Cho nên nói:
Thiên khai ư Tý,
Ðịa tịch ư Sửu,
Nhân sanh ư Dần.
Khoảng thời gian đầu là Tý, Ðức Chí Tôn mở các cõi Trời. Khoảng thời gian tiếp theo gọi là Sửu, Ðức Chí Tôn mở các cõi Ðất. Thời gian tiếp theo nữa gọi là Dần, Ðức Chí Tôn sanh ra vạn vật và loài người....
Thánh Tượng Con Mắt: là Thánh Tượng Thiên Nhãn, là hình vẽ con mắt tượng trưng Ông Trời để thờ.
Thánh Tượng Thiên Nhãn
2. Lưỡng quang chủ tể,
兩光主宰
3. Quang thị Thần,
光是神
4. Thần thị Thiên,
神是天
5. Thiên giả Ngã dã.
天者我也
GIẢI NGHĨA:
1. Con mắt là chủ của cái Tâm. Ở đây, Thiên Nhãn là chủ của cái Thiên Tâm, Thiên Nhãn là chỉ Ông Trời, Thiên Tâm là cái Tâm của ông Trời tức là Thái Cực, Ðại Linh quang, Ðại hồn. Vậy: Ông Trời là chủ của Thái Cực.
2. Hai ánh sáng là chúa tể. Lưỡng quang ấy là Lưỡng Nghi: Dương quang và Âm quang. Ðức Chí Tôn chưởng quản Dương quang, Ðức Phật Mẫu chưởng quản Âm quang. Âm quang và Dương quang là chúa tể, bởi vì Lưỡng quang Âm Dương phối hợp tạo ra Càn Khôn vũ trụ và hóa sanh vạn vật.
3. Ánh sáng là Thần. (Thần là chơn thần của Ông Trời)
4. Thần là Trời.
5. Trời ấy là TA vậy.
Cho nên, thờ Thiên Nhãn là thờ Trời, thờ Ðức Chí Tôn.
Thần cư tại nhãn: Chơn thần hiện ra nơi con mắt. Nhìn vào đôi mắt, ta đoán biết Thần của người đó mạnh hay yếu.
Huờn nguyên hay Hoàn nguyên là trở về nguồn cội. Phép luyện đạo trong Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ là luyện Tam Bửu (Tinh, Khí, Thần) hiệp nhứt, tức là luyện Tinh hóa Khí, luyện Khí hiệp Thần, luyện Thần huờn Hư, tạo được Chơn thần huyền diệu, đắc đạo tại thế.
6. Thầy đã cho các con mặc một bộ thiết giáp
6. Thầy đã cho các con mặc một bộ thiết giáp
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ VIẾT CAO ÐÀI GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG
Ngày 13-3-1926 (âl 29-1-Bính Dần).
Thầy cho các con biết trước đặng sau đừng trách rằng quyền hành Thầy không đủ mà kềm thúc trọn cả môn đệ.
Các con đủ hiểu rằng, phàm muôn việc chi cũng có thiệt và cũng có dối. Nếu không có thiệt thì làm sao biết đặng dối; còn không có dối, làm sao phân biệt cho có thiệt. Cười...
Thầy nói cho các con hiểu rằng, muốn xứng đáng làm môn đệ Thầy là khổ hạnh lắm. Hễ càng thương bao nhiêu thì Thầy lại càng hành bấy nhiêu. Như đáng làm môn đệ Thầy thì là Bạch Ngọc Kinh mới chịu rước; còn ngã thì cửa Ðịa Ngục lại mời. Thương thương, ghét ghét, ai thấu đáo vậy ôi!
Bởi vậy cho nên, Thầy chẳng vì ghét mà không lời khuyến dụ; cũng chẳng vì thương mà không sai quỉ dỗ dành.
Thầy nói trước cho các con biết mà giữ mình. Chung quanh các con, dầu xa dầu gần, Thầy đã thả một lũ hổ lang ở lộn với các con. Thầy hằng xúi chúng nó thừa dịp mà cắn xé các con, song trước Thầy đã cho các con mặc một bộ thiết giáp, chúng nó chẳng hề thấy đặng là đạo đức của các con.
Ấy vậy, rán gìn giữ bộ thiết giáp ấy hoài cho tới ngày các con hội hiệp cùng Thầy.
Nghe và ráng tuân theo.
CHÚ THÍCH:
Càng hành bấy nhiêu: Hành là làm cho cực khổ vất vả. Càng hành bấy nhiêu là ý Ðức Chí Tôn muốn con cái của Ngài chịu nhiều nỗi khó khăn vất vả để trau giồi tâm đức và lập được nhiều công quả hầu sớm trở về cùng Ðức Chí Tôn.
Thầy chẳng vì ghét mà không lời khuyến dụ, cũng chẳng vì thương mà không sai quỉ dỗ dành: Trước là Ðức Chí Tôn dạy dỗ tất cả con cái của Ngài, đứa tốt cũng như đứa xấu, đối đãi đồng đều như nhau.
Sau đó, Ðức Chí Tôn mới cho Quỉ vương thử thách để xem ai đậu ai rớt. Sự thử thách nầy rất khó khăn, Quỉ vương biết ai yếu về mặt nào thì nó thử ngay mặt đó. Nó biết ai ham tiền thì đem tiền đến thử, ai ham sắc thì lấy sắc thử, ai ham danh quyền thì đưa danh quyền đến thử. Cho nên, người nào đậu mới xứng đáng làm môn đệ của Chí Tôn.
Hổ lang: Cọp và chó sói. Ở đây ý nói đám quỉ nhơn độc ác luôn luôn tìm cách phá khuấy hay hãm hại người tu.
Thiết giáp: Bộ áo mặc bên ngoài làm bằng sắt, để che không cho các thứ vũ khí xâm phạm thân thể. Ðức Chí Tôn cho biết, đạo đức của mỗi môn đệ là bộ thiết giáp vô hình bảo vệ an toàn trước đám hổ lang là bọn Tà ma quỉ mị. Chính nhờ bộ thiết giáp đạo đức nầy, nó giúp chúng ta được trở về cùng Ðức Chí Tôn.
7. Nhiên Ðăng Cổ Phật thị Ngã
7. Nhiên Ðăng Cổ Phật thị Ngã
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ VIẾT CAO ÐÀI GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG
Vĩnh Nguyên Tự, 7-4-1926 (âl 25-2-Bính Dần).Nhiên Ðăng Cổ Phật thị Ngã, Thích Ca Mâu Ni thị Ngã, Thái Thượng Nguơn Thỉ thị Ngã, Kim viết Cao Ðài.
CHÚ THÍCH:
Vĩnh Nguyên Tự: Ở xã Tân An, quận Cần Giuộc, do Thái Lão Sư Lê Văn Tiểng, pháp danh Lê Ðạo Long tu theo Minh Ðường (trong Ngũ Chi Minh Ðạo) lập nên. Trước khi Ngài Lê Ðạo Long đăng Tiên, Ngài có tiên tri: "Nơi đây là Thập nhị Khai Thiên, cơ quan của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ hoằng khai chánh giáo chơn truyền."
Ngài dạy các môn đệ phải tùng Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ. Ông Lê Văn Lịch là con ruột của Ngài, được Ðức Chí Tôn phong Ðầu Sư Ngọc Lịch Nguyệt; Thái Lão Sư Trần Văn Thụ, pháp danh Trần Ðạo Minh, là môn đệ lớn nhất của Ngài, nhập Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, được Ðức Chí Tôn ân phong là Ngọc Chưởng Pháp.
Vĩnh Nguyên Tự trở thành một trong những Thánh Thất đầu tiên của Ðạo Cao Ðài.
Nhiên Ðăng Cổ Phật: Giáo chủ Phật giáo thời Nhứt Kỳ Phổ Ðộ.
Thích Ca Mâu Ni: Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni là Giáo chủ Phật giáo thời Nhị Kỳ Phổ Ðộ.
Thái Thượng Nguơn Thỉ: Ðức Thái Thượng Ðạo Tổ và Ðức Nguơn Thỉ Thiên Tôn là Giáo chủ Tiên giáo vào hai thời kỳ: Nhứt Kỳ và Nhị Kỳ Phổ Ðộ.
Thị Ngã: Ấy là TA. Kim viết: Nay gọi rằng.
Cao Ðài: Ðức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Ðế.
Trong tập PHỔ CÁO CHÚNG SANH, đề ngày 13-10-1926, nơi trang 4, bài Thánh Ngôn trên có thêm một câu là: "Gia Tô Giáo Chủ thị Ngã", chép ra như sau:
Nhiên Ðăng Cổ Phật thị Ngã, Thích Ca Mâu Ni Phật thị Ngã, Thái Thượng Nguơn Thỉ thị Ngã, Gia Tô Giáo Chủ thị Ngã, Kim viết Cao Ðài Bồ Tát Ma Ha Tát.
8. Tam Kỳ Phổ Ðộ là gì?
8. Tam Kỳ Phổ Ðộ là gì?
THÍCH CA MÂU NI PHẬT
giáng cơNgày 8-4-1926 (âl 26-2-Bính Dần).Thích Ca Mâu Ni Phật, Chuyển Phật Ðạo, Chuyển Phật Pháp, Chuyển Phật Tăng, Qui nguyên Ðại Ðạo, Tri hồ chư chúng sanh?
Khánh hỷ! Khánh hỷ! Hội đắc Tam Kỳ Phổ Ðộ, chư Thần, Thánh, Tiên, Phật, đại hỷ phát đại tiếu!
Ngã vô lự Tam đồ chi khổ.
Khả tùng giáo Ngọc Ðế viết Cao Ðài Ðại Bồ Tát Ma Ha Tát.
CAO ÐÀI
Lịch! Con nghe Phật Như Lai nói chưa?
Tam Kỳ Phổ Ðộ là gì? Là Phổ Ðộ lần thứ ba.
Sao gọi là Phổ Ðộ? Phổ Ðộ nghĩa là gì?
Phổ là bày ra. Ðộ là gì? Là cứu chúng sanh.
Muốn trọn hai chữ Phổ Ðộ, phải làm thế nào?
Chúng sanh là gì?
Chúng sanh là toàn cả nhơn loại chớ không phải lựa chọn một phần người, như ý phàm tục các con tính rỗi.
Muốn trọn hai chữ Phổ Ðộ, phải làm thế nào? Thầy hỏi? Phải bày Bửu pháp chớ không đặng giấu nữa. Con phải luyện lại cho thành, nội trong tháng 5 nầy về theo Trung đặng đi truyền đạo.
Nghe và tuân theo.
Phải mặc y phục như Trung mà màu hồng.
CHÚ THÍCH:
Phần đầu của bài Thánh Ngôn nầy là Ðức Phật Thích Ca giáng cơ, bằng Hán văn. Phần tiếp theo là Ðức Chí Tôn giáng cơ dạy Ngài Lê Văn Lịch, và câu chót thì Ðức Chí Tôn định phong Ngài Lê Văn Lịch vào phẩm Ðầu Sư cùng với Ngài Lê Văn Trung, nhưng phái Ngọc, mặc áo màu đỏ.
Ngài Thượng Ðầu Sư Lê Văn Trung, Thánh danh là Thượng Trung Nhựt.
Ngài Ngọc Ðầu Sư Lê Văn Lịch, Thánh danh là Ngọc Lịch Nguyệt. (Ðầu Sư phái Thái, Ðức Chí Tôn chưa phong).
Phật, Pháp, Tăng: Ở đây là Tam Bảo của nhà Phật: Phật là Ðức Phật, Pháp là Giáo lý và Tăng là Giáo hội.
Chuyển Phật Ðạo, Chuyển Phật Pháp, Chuyển Phật Tăng, qui nguyên Ðại Ðạo là chuyển toàn cả Phật giáo trở về gốc là Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
Tri hồ chư chúng sanh? là Chúng sanh biết chăng?
Khánh hỷ! Nghĩa là: Vui mừng.
Hội đắc Tam Kỳ Phổ Ðộ: Gặp được Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
Ðại hỷ: Mừng lớn. Phát đại tiếu: Phát cười lớn.
Ngã vô lự Tam đồ chi khổ: Ta không lo cái khổ của ba đường. Ba đường nầy là ba đường luân hồi khổ sở (nằm trong Lục đạo Luân hồi), gồm: Ðịa ngục, Ngạ quỉ, Súc sanh.
Khả tùng giáo Ngọc Ðế: Khá theo lời dạy của Ðấng Ngọc Hoàng Thượng Ðế (nói tắt là Ðấng Ngọc Ðế).
Chúng sanh, theo nghĩa rộng, là toàn cả các vật hữu sanh nơi cõi trần, gồm: Kim thạch, Thảo mộc, Thú cầm và Nhơn loại. Chúng sanh có được do Ðức Phật Mẫu vận chuyển Bát hồn đầu kiếp xuống cõi trần làm chúng sanh. Trong nghĩa hẹp, chúng sanh là chỉ nhơn loại.
Bát hồn gồm: Kim thạch hồn, Thảo mộc hồn, Thú cầm hồn, Nhơn hồn, Thần hồn, Thánh hồn, Tiên hồn, Phật hồn. Trong bài Phật Mẫu Chơn Kinh có câu: "Bát hồn vận chuyển hóa thành chúng sanh".
Bửu pháp: Pháp quí báu, ở đây, bửu pháp có nghĩa là các pháp môn tu Thiền, Tịnh luyện. Các bửu pháp nầy Ngài Lê Văn Lịch học được nơi thân phụ của Ngài là Thái Lão Sư Lê Văn Tiểng truyền lại.
(Thái Lão Sư Lê Văn Tiểng giáng cơ cho biết đã tu đắc quả Như Ý Ðạo Thoàn Chơn Nhơn).
9. Cửu Thiên Cảm Ứng Lôi Thinh Phổ Hóa Thiên Tôn
9. Cửu Thiên Cảm Ứng Lôi Thinh Phổ Hóa Thiên Tôn
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ viết CAO ÐÀI giáo đạo Nam phương
Ðêm 22 rạng 23-4-1926 (âl 11/ 12-3-Bính Dần).
I. Ba con nghe dạy cuộc sắp Thiên phong.
Các con vui không?
Ðạo phát trễ một ngày là một ngày hại nhơn sanh. Thầy nôn nóng nhưng mà Thiên cơ chẳng nghịch đặng, nên phổ thông trắc trở.
Vậy thì ba con (Trung, Cư, Tắc) cứ sắp đặt thế nầy:
Trung nghe! Con dời bài vị của Lý Bạch để dưới tượng Thầy, con dọn dẹp trong hết, để một cái ghế kế một bên tran thờ, rồi để lên một cái ghế lớn đặng làm ngôi Giáo Tông, ba cái nữa để sắp hàng theo ở dưới đặng làm ngôi cho ba vị Ðầu Sư.
Con phải bao bốn cái ghế ấy cho tinh khiết. Con đem Thiên phục Giáo Tông để nơi ghế ở trên, còn bộ Thượng Thanh thì để giữa, bộ Ngọc Thanh bên hữu, còn ghế bên tả, con phải viết một miếng giấy để chữ "Thái" cho lớn mà dán lên chỗ dựa.
Ngay chỗ bàn ngự của Thầy, phải để một cái ghế trước ngôi ba vị Ðầu Sư, vọng một bài vị, biểu Lịch viết như vầy:
"CỬU THIÊN CẢM ỨNG LÔI THINH PHỔ HÓA THIÊN TÔN", lại vẽ thêm một lá bùa "KIM QUANG TIÊN" để thòng ngay giữa, ai ai ngó vào cũng đều thấy đặng.
Bàn Thầy giáng cơ thì để trước bàn vọng Ngũ Lôi, khi giáng cơ rồi thì dời đi cho trống chỗ, đặng nhị Ðầu Sư quì mà thề.
Con lại để thêm một cái bàn giữa bên cửa sổ, đằng trước ngó vô.
II. Cư ! Nghe dặn. Con biểu Tắc tắm rửa sạch sẽ (xông hương cho nó), biểu nó lựa một bộ quần áo tây cho sạch sẽ, ăn mặc như thường, đội nón. Cười . . .
Ðáng lẽ nó phải sắm khôi giáp như hát bội, mà mắc nó nghèo, Thầy không biểu. Bắt nó lên đứng trên, ngó mặt ngay vô ngôi Giáo Tông, lấy chín tấc vải điều đắp mặt nó lại.
Lịch ! Con viết một lá phù "GIÁNG MA XỬ" đưa nó cầm.
Các con phải thanh tịnh, kể từ ngày nay diệt tận phàm tâm, chớ nhơ một điểm thì ngày ấy thề mới đặng.
Cư ! Khi đem ba bộ Thiên phục đến vọng trên ba cái ngai thì con phải chấp bút bằng nhang như mọi lần, đặng Thầy trấn Thần trong ba bộ Thiên phục và ba ngai ấy, rồi mới kêu hai vị Ðầu Sư đến quì trước bửu ngai của nó, đặng Thầy vẽ phù vào mình.
Khi hai vị Ðầu Sư vái rồi, phải đến trước Bửu điện Thầy mà làm lễ (12 lạy) và trước ngôi Giáo Tông (9 lạy), rồi biểu Giảng xướng lên: "Phục vị", thì hai người leo lên ngồi.
Cả thảy môn đệ phân làm ba ban, đều quì xuống.
Biểu Tắc leo lên bàn, con chấp bút bằng nhang, đến bàn Ngũ Lôi đặng Thầy triệu nó đến, rồi mới tới trước mặt Tắc đặng Thầy trục xuất Chơn thần của nó ra, nhớ biểu Hậu, Ðức, xông hương tay của chúng nó, như em có giựt mình té thì đỡ.
Rồi biểu hai vị Ðầu Sư xuống ngai, đến quì trước mặt Ngũ Lôi, hai tay chấp trên đầu, quì ngay bùa Kim Quang Tiên mà thề như vầy:
"Tôi là Lê Văn Trung tự Thiên ân là Thượng Trung Nhựt, và Lê Văn Lịch tự Thiên ân là Ngọc Lịch Nguyệt, Thề Hoàng Thiên Hậu Thổ trước bửu pháp Ngũ Lôi rằng làm trọn Thiên đạo mà dìu dắt cả mấy em chúng tôi đều là môn đệ của Cao Ðài Ngọc Ðế, nhứt nhứt do lịnh Thầy phân định, chẳng dám chuyên quyền mà lập thành tả đạo, như ngày sau hữu tội thì thề có Ngũ Lôi tru diệt."
Ðến bàn Vi Hộ Pháp cũng quì xuống, vái y vậy, điều câu sau thì như vầy:
"như ngày sau phạm Thiên điều, thề có Hộ Pháp đọa tam đồ bất năng thoát tục."
Rồi mới biểu Giảng xướng lại nữa: "Phục vị", thì nhị Ðầu Sư trở lại ngồi trên ngai. Chư môn đệ đều đến lạy mỗi người hai lạy.
Tới phiên các môn đệ, từ người đến bàn Ngũ Lôi mà thề rằng:
"Tên gì? . . . Họ gì? . . . Thề rằng: Từ đây biết một Ðạo Cao Ðài Ngọc Ðế, chẳng đổi dạ đổi lòng, hiệp đồng chư môn đệ, gìn luật lệ Cao Ðài, như sau có lòng hai thì Thiên tru Ðịa lục."
Tới trước bàn Hộ Pháp cũng thề như vậy, rồi mới đến lạy nhị Ðầu Sư.
CHÚ THÍCH:
Những vị có tên trong bài Thánh Ngôn nầy là:
Trung: Lê Văn Trung
Cư: Cao Quỳnh Cư
Tắc: Phạm Công Tắc
Lịch: Lê Văn Lịch
Hậu: Nguyễn Trung Hậu
Ðức: Trương Hữu Ðức
Giảng: Lê Văn Giảng, giữ nhiệm vụ Xướng Lễ, có tên trong mười hai vị môn đệ đầu tiên của Ðức Chí Tôn, sau đắc phong Thượng Giáo Hữu.
Bài Thánh Ngôn trên được chia làm hai phần: I và II.
Phần I có trong ÐS.I.108 và Phần II có trong ÐS.I.112.
Phần I: Ðức Chí Tôn giáng cơ tại nhà Ngài Cao Quỳnh Cư, vào đêm 22 rạng 23-4-1926, Phò loan: Cư - Tắc, hầu đàn có mặt hai Ngài Trung và Lịch.
Ðức Chí Tôn dạy hai Ngài Trung và Lịch sắp đặt cuộc Thiên phong nơi nhà Ngài Trung ở đường "Quai Testard", Chợ Lớn.
Phần II: Ðức Chí Tôn giáng cơ tại nhà Ngài Trung và thực hiện cuộc Thiên phong tại đây, vào ngày Chúa nhựt 25-4-1926 (âl 14-3-Bính Dần), Phò loan: Cư - Tắc.
Trong ngày nầy, Ðức Chí Tôn trục xuất Chơn thần của Ngài Phạm Công Tắc để Chơn thần của Vi Hộ Pháp nơi cõi thiêng liêng nhập vào, mượn xác Phạm Công Tắc chứng thệ cho nhị vị Ðầu Sư, và các môn đệ của Ðức Chí Tôn.
Xong rồi, Ðức Chí Tôn lập Minh Thệ cho hai vị Ðầu Sư: Thượng Trung Nhựt và Ngọc Lịch Nguyệt.
Sau cùng Ðức Chí Tôn lập Minh Thệ cho các môn đệ.
Ðức Chí Tôn nói: "Bộ Ngọc Thanh bên hữu, còn ghế bên tả để chữ Thái." Nếu tả hữu nầy là bên hữu và bên tả của Ðức Chí Tôn thì vị trí 3 ngai Ðầu Sư đối với Thiên Bàn như sau:
Thiên Nhãn
(Hữu)
Ngai Giáo Tông
(Tả)
Ngai Ngọc Ðầu Sư
Ngai Thượng Ðầu Sư
Ngai Thái Ðầu Sư
Cửu Thiên Cảm Ứng Lôi Thinh Phổ Hóa Thiên Tôn: Ðây là phẩm tước của vị đứng đầu Bộ Lôi Công hay Lôi Bộ (Ngũ Lôi), là Thái Sư Văn Trọng vào thời Phong Thần.
Bùa Kim Quang Tiên: là lá bùa trấn không cho Tà quái (Kim Quang Sứ và đệ tử) xâm nhập phá khuấy.
Giáng Ma Xử: Cái chày để hàng phục quỉ ma. Ðây là bửu pháp của Vi Hộ thời Phong Thần. Sau Vi Hộ trở về núi tu luyện đắc quả Phật Hộ Pháp, nên gọi là Vi Hộ Pháp. Bửu pháp nầy được Ðức Hộ Pháp đem trấn nơi CLTG cõi thiêng liêng.
Phục vị: Trở lại ngôi vị của mình, tức là trở lại ngồi trên ngai của mình.
Ba ban: Ban giữa, Ban tả, Ban hữu.
- Lời Minh thệ của nhị vị Ðầu Sư: Từ chữ Thề Hoàng Thiên . . . . . . . tru diệt, tổng cộng là 60 chữ, một bội số của 12: 60 = 12 x 5
- Lời Minh thệ của chư Môn đệ: Từ chữ Thề rằng từ đây . . . . . . . . . . Ðịa lục, tổng cộng là 36 chữ, một bội số của 12: 36 = 12 x 3
Hoàng Thiên: Vua Trời. Hậu Thổ: Vua Ðất, tức là vị Thần cai quản các Thổ Thần trong một nước. Hậu là vua.
Bửu pháp Ngũ Lôi: Những bửu bối của các Thần trong Lôi Bộ, như Búa Thần, Roi Thần.
Tả đạo: Ðạo bất chánh, trái lẽ, đối nghịch Chánh đạo.
Ðọa Tam đồ bất năng thoát tục: Ðọa đày ba vòng luân hồi không thể thoát khỏi cõi trần, tức là bị luân hồi từ phẩm kim thạch cho đến phẩm nhơn loại, rồi trở lại kim thạch, luân hồi ba vòng như vậy thì mới xong hình phạt.
Thiên tru địa lục: Trời giết, Ðất giết, tức là phải bị giết chết, không thể chạy trốn đâu cho khỏi.
10. Ngũ Chi Ðại Ðạo
10. Ngũ Chi Ðại Ðạo
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ viết CAO ÐÀI TIÊN ÔNG ÐẠI BỒ TÁT MA HA TÁT giáo đạo Nam phương
Ngày 24-4-1926 (âl 13-3-Bính Dần).
Vốn từ trước Thầy lập Ngũ Chi Ðại Ðạo là:
Nhơn đạo,
Thần đạo,
Thánh đạo,
Tiên đạo,
Phật đạo.
Tùy theo phong hóa của nhơn loại mà gầy Chánh giáo, là vì khi trước Càn vô đắc khán, Khôn vô đắc duyệt, thì nhơn loại duy có hành đạo nội tư phương mình mà thôi.
Còn nay thì nhơn loại đã hiệp đồng, Càn Khôn dĩ tận thức, thì lại bị phần nhiều đạo ấy mà nhơn loại nghịch lẫn nhau, nên Thầy mới nhứt định qui nguyên phục nhứt.
Lại nữa, trước Thầy lại giao Chánh giáo cho tay phàm, càng ngày lại càng xa Thánh giáo mà làm ra Phàm giáo.
Thầy lấy làm đau đớn hằng thấy gần trót mười ngàn năm, nhơn loại phải sa vào nơi tội lỗi, mạt kiếp chốn A Tỳ.
Thầy nhứt định đến chính mình Thầy độ rỗi các con, chẳng chịu giao Chánh giáo cho tay phàm nữa. Nhưng mà buộc phải lập Chánh thể, có lớn nhỏ đặng dễ thế cho các con dìu dắt lẫn nhau, anh trước em sau mà đến nơi Bồng đảo.
Vì vậy, Thầy mới lập ra có một phẩm Giáo Tông, nghĩa là anh cả, ba phẩm Ðầu Sư, nghĩa là giáo hữu. Chẳng một ai dưới thế nầy còn đặng phép nói rằng thế quyền cho Thầy mà trị phần hồn của nhơn loại. Còn cả môn đệ, ai cũng như ai, không đặng gây phe lập đảng, nhược kẻ nào phạm tội thì Thầy trục xuất ra ngoài cho khỏi điều rối loạn.
CHÚ THÍCH:
Bài Thánh Ngôn nầy do Hộ Pháp và Thượng Phẩm phò loan.
Phong hóa: Nói chung những phong tục tập quán có từ lâu đời của một dân tộc làm cho đời sống xã hội trật tự tốt đẹp.
Càn vô đắc khán: Không thấy hết được Trời.
Khôn vô đắc duyệt: Không xem hết được Ðất.
Tư phương: Ðịa phương riêng, vùng đất riêng.
Càn Khôn dĩ tận thức: Ðã biết rõ Trời Ðất.
Qui nguyên: Trở về nguồn cội.
Phục nhứt: Trở lại thành một.
A Tỳ: Chỉ cõi Ðịa ngục.
Mạt kiếp: Thời kỳ cuối cùng của kiếp sống nhơn loại.
Chánh thể: Hình thức tổ chức các cơ quan điều hành việc đạo.
Bồng đảo: Ðảo Bồng Lai, chỉ cõi Tiên.
ID20276 - Chương : 2. Thủ cơ - Chấp bút
ID20277 - Chương : 3. Phải chung lo cho danh đạo Thầy
ID20278 - Chương : 4. Một điểm quang minh là một hồn người
ID20279 - Chương : 5. Lạy là gì?
ID20280 - Chương : 6. Thầy đã cho các con mặc một bộ thiết giáp
ID20281 - Chương : 7. Nhiên Ðăng Cổ Phật thị Ngã
ID20282 - Chương : 8. Tam Kỳ Phổ Ðộ là gì?
ID20283 - Chương : 9. Cửu Thiên Cảm Ứng Lôi Thinh Phổ Hóa Thiên Tôn
ID20284 - Chương : 10. Ngũ Chi Ðại Ðạo